Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư (II)

Qua lời kể của nhà báo Lưu Trọng Văn, con thứ của Lưu Trọng Lư

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?

Việt Hùng: Tiếng Thu qua lời người con thứ của cố thi sĩ Lưu Trọng Lư như lời mở đầu để giới thiệu về Tiếng Thu ra đời trong hoàn cảnh nào? Mời quý vị cùng trở ngược dòng thời gian vào những năm 30 thế kỷ trước khi Tiếng Thu ra đời.

Lưu Trọng Văn: Cha tôi có kể, hồi bé ông thường được mọi người nhờ viết thư hộ cho những gia đình có người thân tham gia cuộc (đệ nhất thế chiến 1914 – 1918), cũng có nhiều người Việt tham gia trong đội quân của người Pháp, tham chiến. Họ nhận được những bức thư, nhưng những người đàn bà ở quê vì không biết chữ nên không biết viết trả lời như thế nào nên hay nhờ cậu bé Lưu Trọng Lư, tức cha tôi viết thư hộ. Cha tôi đã phải viết hộ những lá thư nói về cuộc chiến, nói về thân phận những người đàn bà ở quê. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng nhiều tới bài thơ Tiếng Thu. Hình ảnh chinh phu, cô phụ, chinh phụ. Tất cả những hình ảnh đó đã ảnh hưởng vào thơ của cha tôi là vì hồi lúc nhỏ luôn phải làm cầu nối cho rất nhiều người đàn bà có chồng trong làng đi chinh chiến viễn xứ ở bên trời Âu.Luu Trong Lu's family portrait

Chính vì sống trong hoàn cảnh như vậy đã tạo cảm giác về những nỗi buồn có người chồng phải đi chinh chiến nên cha tôi từ bé đã sống trong nỗi buồn, buồn dùm cho những người đàn bà đó. Cha tôi kể rằng, trong ngôi nhà của cha tôi, chỗ ngồi học có cái bàn và trên cái bàn đó có treo một bức tranh bằng gỗ của ai đó tặng ông nội tôi. Trên bức tranh điêu khắc hình một con nai có đôi mắt to. Theo lời cha tôi kể thì đôi mắt ấy trong “ngớ ngẩn” chứ không phải là “ngơ ngác” như trong bài thơ đâu. Cha tôi đã sống trong hai cảm giác khi mỗi buổi sáng mở mắt ra ngước lên là thấy hình ảnh con nai rồi cảm giác thứ hai là đến nhà những gia đình có người thân gia đi chinh chiến xa, phải kể lại những chuyện như thế nên từ những cảm xúc như thế mới hình thành bài Tiếng Thu.

Tôi cũng xin kể cho anh nghe về chuyện lần đầu tiên tôi biết đến bản Tiếng Thu này như thế nào. Đây là một sự thật vừa buồn, vừa lạ. Đó là vào cuối năm 1966 (ở ngoài miền Bắc) lúc đó tôi là một cậu học trò 15 tuổi phải đi sơ tán ở làng Quốc Oai tức Phủ Quốc (địa danh trong thơ của thi sĩ Quang Dũng). Lúc đó tôi đang ở nhà thì máy bay tới bắn hai quả tên lửa và thả một quả bom xuống trường cấp III  Quốc Oai  của tôi. Lúc đó tôi đang ở trong hầm trú bom thì thấy trường học trúng bom, tôi chay ra khỏi hầm và chạy tới trường. Khi lao tới tôi thấy có một con trâu bị chết và bên cạnh đó có một cô bé, sau này tôi biết tên cô ta là Liên bị thương ở bụng, máu chảy nhiều.

Mọi người xúm lại và cáng cô ấy tới bệnh viện Quốc Oai ở bờ đê, băng qua một cánh đồng trống trong cảnh máy bay và bom như thế. Khi tới bệnh viện huyện thì tôi lại thấy có một bà mẹ, bà ấy ngồi bên cạnh cô bé đó, bà ấy cứ lặng đi. Có một cô y tá lúc đó nói với tôi “cậu ơi, cậu giúp tôi đánh vào mặt bà ấy một cái”. Tôi quay ra hỏi, tại sao lại đánh thì cô y tá nói đánh để cho bà ấy khóc, phải đánh để cho bà ấy khóc mới được. Tôi đã đánh, nhưng không được, cuối cùng là cả cô y tá và tôi cùng đánh bà ấy thì bà ấy mới “ộc” ra khóc.

Đêm hôm đó tôi rất buồn, tôi đi lang thang trong làng và nước mắt cứ chảy ra. Sau đó tôi có ghé vào nhà một người quen trong làng, anh ấy tên là Thao. Tôi vào nhà rồi kể lại câu chuyện đó thì tự dưng anh Thao mới đóng cái cửa bằng liếp tre lại rồi hạ cái đèn dầu thấp xuống, ánh đèn leo lét chỉ bằng hạn đậu thôi. Rồi sau đó anh ấy mới lấy cái ghế đứng lên với trên mái rơm nhà một bọc gói bằng lá chuối khô mấy tờ giấy. Trong đó có mấy tờ giấy học trò và bảo tôi đọc đi. Tôi đọc thì biết đó là bài Tiếng Thu.

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?

….và ở dưới đề tên Lưu Trọng Lư 

Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi biết cha tôi có một bài thơ như thế. Và lần đầu tiên tôi đọc một bài thơ mà tôi rợn cả người trong một không gian, thời gian vừa xảy ra những chuyện mà tôi vừa kể ở trên.

Lúc đó tôi cũng không hiểu được tại sao anh Thao, một người cũng từng làm công chức cho Pháp thời Pháp thuộc này lại đưa cho tôi bài thơ như thế. Tôi cũng không hiểu tại sao anh ấy lại có ý nghĩ đó?

Việt Hùng: Nhưng lúc đó anh Thao đó, anh ấy có biết anh là con trai của nhà thơ Lưu Trọng Lư không?

Lưu Trọng Văn: Có chứ, anh ấy biết thì anh ấy mới đưa chứ.

Việt Hùng: Nhưng mà, anh là con trai của nhà thơ Lưu Trọng Lư, phải chăng anh không biết là cha mình có một bài thơ như vậy hay kể cho anh bài thơ của cha anh hay sao?

Lưu Trọng Văn: Đấy là chuyện mà tôi đang kể cho anh, chuyện xảy ra vào năm 1966. Bản thân tôi là con trai của ông Lưu Trọng Lư mà tôi không biết. Đấy là một thực tế. Cha tôi, tôi chỉ biết những bài thơ sau này về cách mạng in báo này nọ thôi. Vì cả một thế hệ chúng tôi có được đọc đâu. Có ai cho đọc đâu? Không ai cho đọc, không lưu truyền thì làm sao tôi biết được. Điều đó cũng để thấy rằng, bài Tiếng Thu dù muốn hay không vẫn sống trong những người lớn tuổi hay sống trong một giai đoạn thời cũ vẫn nhớ tới những bài đó.
Sau này vào năm 1968, trên một chuyến đi  bằng tàu hỏa từ Bắc Kinh sang Mạc Tư Khoa có một anh bạn học nói với tôi, “Mày có thích không, tao sẽ hát cho mày nghe một bài hát này.” Và anh bạn này có kéo cánh cửa trên toa tầu, đóng cửa lại và hát cho tôi nghe bài Tiếng Thu, do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.

Tôi nghe tôi xúc động lắm anh ạ. Đây là lần thứ hai tôi biết đến bài thơ này. Tôi nghe và nghĩ, ồ hay vậy, tại sao bài thơ của cha mình lại có một ông nhạc sĩ là ông Phạm Duy phổ nhạc mà hay như vậy. Ngay lúc đó, “thằng bạn” tôi nói ngay, “Này mày không được phổ biết đâu đó nghe. Đây là nhạc vàng đó, lọai ủy mị đó.”

Bây giờ tôi lại phải kể cho anh nghe thêm một chuyện như vậy nữa. Chuyện này do chính cha tôi kể, ông Tố Hữu (nhà thơ Tố Hữu) có “mời” cha tôi lên rồi hỏi “này anh có nghe không, đài của Sài Gòn vẫn phát bài Tiếng Thu của anh?” Thế thì cha tôi mới nói thế này “bài Tiếng Thu, đứa con tinh thần của tôi dù phiêu bạt ở đâu thì tôi luôn yêu quý nó, thương yêu nó bởi vì nó là đứa con của tôi. Chỉ tiếc là một thế hệ trẻ không được học tới, không được biết tới“.

Chỉ về sau này khi đất nước bắt đầu “cởi mở” thì tất cả những bài thơ trong phong trào thơ mới đó mới được in lại, mới được phổ biến, nhà trường bắt đầu cho học sinh học tới, các giáo trình ở đại học mới bắt đầu học tới. Sách báo mới bắt đầu hàng loạt in ra vì đó là một thực tế của lịch sử tại (miền Bắc), một giai đoạn lịch sử đã qua.

Việt Hùng: Trở lại bài Tiếng Thu, phải chăng đây là bài thơ đầu tay của nhà thơ Lưu Trọng Lư?

Lưu Trọng Văn: Không, không ạ, những bài thơ đầu tay của cha tôi là những bài mà cha tôi kể lại lúc in không lấy tên Lưu Trọng Lư mà in trên tờ Phụ Nữ Tân Văn, tôi không nhớ rõ lắm. Bài Tiếng Thu không phải là bài thơ đầu tiên của cha tôi. Nhưng bài Tiếng Thu đã đi vào cuộc đời của ông cụ tôi, sau này ông có làm Tiếng Thu 2, nhưng cuối cùng chính ông cũng không thật sự hài lòng, dư luận cũng phản ứng cho nên sau này ông không nhắc đến bài Tiếng Thu 2 nữa.Luu Trong Lu's books

Trong gia đình tôi vẫn còn giữ bút tích của ông đề là Tiếng Thu 193…, không biết là năm 193…? nhưng chắc chắn là phải trước năm 1939. Bởi vì tập thơ Tiếng Thu in năm 1939. Nhưng tôi lại đọc ở một tờ báo xưa ở Hà Nội nói là bài Tiếng Thu đã in từ năm 1932 rồi. Và tại sao lại nói Lưu Trọng Lư là người khởi xướng phong trào thơ mới tại Việt Nam vì bản thân những bài Tiếng Thu là bài thơ đầu tiên mà ông Nhất Linh đưa đi in là in sớm nhất sau bài Tình Già của cụ Phan Khôi. Thật ra bài Tình Già của cụ Phan Khôi chưa thể hiện được cái mới của phong trào thơ mới, nhưng đã mở đầu cho một lối viết khác đi rồi sau bài Tình Già của cụ Phan Khôi là một loạt bài của cha tôi rồi đến nhà thơ Thế Lữ.

Nhưng có một điều lạ, cha tôi  là người duy nhất khi phong trào thơ mới ra đời cha tôi lại là người đi cổ suý, tuyên truyền hay thậm chí đi đấu tranh, tức là khi vào Sài Gòn cùng bà Nguyễn Thị Manh Manh đi diễn thuyết cho lớp trẻ rồi đọc thơ. Đó là từ những năm đầu thập niên 30. Cha tôi có kể trong một lần đi diễn thuyết ở mỗt trường học ở Quy Nhơn thì bị một ông “mặc đồ khăn đống áo dài” vác guốc ra đuổi, khi hỏi ra mới biết đó chính là bố của ông Xuân Diệu (nhà thơ Xuân Diệu) vì cũng không chịu được những loại thơ như thế. Thành ra cha tôi không những là người làm thơ mà lại còn là người đi diễn thuyết, đi phổ biến và còn đi tranh luận với những người thuộc lớp “thơ cũ”, thậm chí cha tôi còn tranh luận với những người như cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Việt Hùng: Nhưng trong bản in Tiếng Thu lại ghi là “Tặng Bạn Văn”. Bạn văn ở đây có thể hiểu như thế nào?

Lưu Trọng Văn: Trong bản  in đầu tiên năm 1939 thì có ghi là “tặng bạn văn”. Bạn văn ở đây có thể hiểu ở đây là những người bạn văn chương. Thật ra trong tập Tiếng Thu có một số bài cha tôi viết là để tặng một số người như tặng Nguyễn Tuân (nhà văn Nguyễn Tuân), nhà thơ Vũ Hoàng Chương, tặng Hoài Thanh, tặng Huy Cận.

Thật ra tình cảm của ông cụ tôi với ông Nguyễn Tuân, ông Hoài Thanh và Vũ Hoàng Chương rất lớn, bởi vì đó là những người đã tri âm, tri kỷ. Nhưng mà ông Nguyễn Tuân và Vũ Hoàng Chương với cha tôi không chỉ là những người bạn tri âm, tri kỷ, bạn văn, mà còn là bạn đi chơi “giang hồ”. Cha tôi kể, đi bất cứ đâu lang thang, giang hồ thì đi với ông Nguyễn Tuân thì thú lắm. Thú với thiên nhiên, với con người, với văn chương. Và bạn văn  trong “ý” nào đó thì gần với ông Nguyễn Tuân, bởi vì hai cụ lúc còn trẻ đi chơi, lang bạt giang hồ thì hay đi với Nguyễn Tuân.  Nhưng khi đi chơi giang hồ xong về rồi thì lại hay ngồi nói chuyện với ông Hoài Thanh. Bởi vì sao? Vì ông Hoài Thanh là người có suy nghĩ cổ và khi ngồi với ông Hoài Thanh thì chỉ có văn chương dân tộc và hàng đêm các ông ngồi ở ngoài hàng hiên ở nhà ngoài Huế chỉ bàn chuyện thơ Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi. Nhưng với ông Nguyễn Tuân thì không có cái đó, với Nguyễn Tuân thì lại ngồi bàn tới một cô gái đẹp, cảnh đẹp một thiên nhiên nào đó, một câu thơ, câu văn hiện đại, bàn đến thơ Pháp, văn Pháp. Thì bạn văn ấy có thể hiểu là những người cùng chí hướng với cha tôi trong định mệnh văn chương, chứ không có nghĩa cụ thể một ai.Luu Trong Lu -  portrait in sepia

Việt Hùng: Tiếng Thu của cố thi sĩ Lưu Trọng Lư qua ý nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy như lời nói chia tay của chương trình tới quý vị thính giả. Trong chương trình buổi nay chúng tôi đã xử dụng tư liệu qua tiếng hát của nữ danh ca Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly và Duy Trác. Cám ơn quý vị đã dành thời giờ theo dõi. 

Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư (II) 09/26 by AV Travel | Blog Talk Radio.

Việt Hùng

Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư (II) – Online Radio

Luu Trong Lu - portrait in sepia

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?

Những vần thơ mở đầu trong bản Tiếng Thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư ra đời cách nay đã hơn 80 năm. Vậy mà sao mỗi khi thu về, hình ảnh rừng phong thu đã nhuộm màu quan san… thì đâu đó trong lòng người đi kẻ ở Tiếng Thu lại vọng về.

Tiếng Thu ra đời trong hoàn cảnh nào? Phải chăng, có thể nói Tiếng Thu là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới cuối thập niên 20, đầu thập niên 30 thế kỷ trước tại Việt Nam.

Phải chăng “thời thế – thế thời” hay vì đâu, mà ngay chính những người con trong gia đình nhà thơ Lưu Trọng Lưu chẳng hề hay biết như qua lời người con thứ:  “ … rằng cha mình có một bài thơ như vậy…”.

 Mời quý vị cùng Việt Hùng tìm về Tiếng Thu qua câu chuyện với Lưu Trọng Văn, người con thứ của cố thi sĩ Lưu Trọng Lư.

Chương trình Vòng Quanh Thế Gii phát thanh trên mng do AV Travel thc hin.

Chương trình phát ngày 26 tháng 9, 2012 lúc 11g sáng / trưa/ tối (giờ miền Tây Hoa Kỳ)

Xin bm vào link dưới đây đ nghe và ph biến cho bn bè, người thân.

Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư (II) 09/26 by AV Travel | Blog Talk Radio.

Bài viết về “Tiếng Thu –  Lưu Trọng Lư (II)”

Bài  tham khảo thêm về Lưu Trọng Lư

Phần phát thanh “Một Mùa Đông – Lưu Trọng Lư (I)”